Mấy chục năm sau,tôi mới hiểu cái lo của người lớn. Không chỉ lo nước,mà lo những thứ đi cùng nước: bóng tối,mất liên lạc,tiếng gió ép sát vách tôn.
Ngoại tôi năm nay 91 tuổi,sống một mình trong căn nhà nhỏ cuối xóm,khu vực sông Cái,Đông Hòa,Phú Yên. Lũ lên ai cũng nôn nóng,ngoại thì vẫn thủng thẳng vì đã chuẩn bị từ đầu mùa. Cái thang cột sẵn vô trần. Bao xốp gom lại một góc. Thân chuối chặt sẵn để phòng làm phao. Kinh nghiệm đó ngoại không học ở đâu xa,là thứ sống cả đời cùng nước mà thành.
Nước vừa dâng,ông cụ 91 tuổi đẩy xe qua nhà cậu út. Ông đi chậm,bước nào chắc bước đó. Không phải chạy lũ,mà đó là cách ông gửi một tín hiệu cho con cháu ở xa: ngoại đã sang tới chỗ an toàn,có người kế bên,đừng lo. Chỉ cần cậu út nhắn lại một câu "ông đang ngồi đây",điện thoại các con mới thôi sáng liên tục vì gọi hụt.
Đêm thứ hai,làng tôi tối thui. Điện tắt. Sóng mất. Người con xa quê như tôi chỉ biết nhìn màn hình đen báo "không thể kết nối". Mỗi lần gọi thất bại là một nhịp tim hụt theo. Không biết má nép ở đâu. Không biết căn nhà cuối xóm còn đứng hay nước đã lên tới mái.
Trong khoảng tối đó,tôi thấy một người trong xóm đăng vài tấm hình và video lên mạng. Ánh đèn cứu hộ quét ngang bề mặt nước. Tiếng máy nổ. Tiếng gọi nhau trong màn đêm. Dưới lớp nước cuồn cuộn là từng nhóm công an,bộ đội đi gõ từng cánh cửa,khều từng tấm tôn,lội ngược dòng xiết để kéo bà con ra khỏi chỗ sâu.
Hy vọng ở quê tôi bắt đầu từ luồng sáng nhỏ giữa đêm.
Tôi đặt vé xe về quê,lòng nóng như lửa. Nhưng xe khách dừng chạy vì Đèo Cả hư hỏng nặng. Sân bay Tuy Hòa ngập nước. Liên lạc viễn thông đứt. Giao thông tách rời. Tôi chỉ còn chọn cách lái xe cá nhân,đi tới đâu được thì dừng,đường mở thì chạy tiếp.
Ngày thứ ba,chị Hai gửi được một tấm hình. Ảnh tải chậm,mờ,nhưng vừa hiện lên là đã nhẹ nhõm vì thấy nhà còn người. Áo mưa treo trước cửa. Áo phao trên móc. Xe máy dựng cao. Cơm xếp lên yên. Hóa ra mấy ngày tôi mất liên lạc,xóm tôi vẫn xoay xở với nhau.
Bếp nhà tôi được mượn làm bếp chung. Chú Bảy đảo cá kho trên bếp ga. Cháu lặt rau. Cô bác chia tôm rim từng hộp. Ngoài sân,từng người ôm thùng cơm chạy ra đầu xóm để đưa cho mấy nhà bị cô lập. Mưa quất xuống mặt đường,nước ngang đầu gối,mà ai cũng chạy nhanh như sợ trễ một phần cơm.
Tôi nhìn mấy hộp cơm có tôm rim,cá kho,cải xào mà thấy bếp nhà mình thành cầu nối. Không cần điện. Không cần sóng. Người ta vẫn nối nhau bằng hơi nóng từ nồi cơm,bằng tay chuyền qua tay,bằng chiếc xe không kịp tắt máy vì nước lên quá nhanh.
Đợt lũ này,tôi sẽ còn được nghe thêm nhiều chuyện. Chuyện những nấc thang bị nước nuốt. Chuyện người chèo ghe xuyên đêm. Chuyện nước ngang ngực mà vẫn cố mang theo thùng thuốc. Chuyện điện thoại tắt sóng,người ta chạy bộ qua từng nhà để hỏi nhau "ổn không".
Khi mất liên lạc,người ta mới hiểu giá trị của một tiếng chuông. Khi mất sóng,người ta mới hiểu hàng xóm quan trọng cỡ nào. Ở xa,nỗi lo nằm trong màn hình đen. Trong xóm,nỗi lo nằm trong tiếng nước gõ vô cửa. Nhưng giữa hai phía lo đó,quê tôi vẫn giữ nhau bằng những cách không cần tín hiệu.
Còn người,còn của.
Ở mỗi mùa thiên tai,bài học không nằm ở mực nước mà nằm ở những sợi dây gắn kết. Khi tín hiệu tắt,thứ cứu người chính là những sợi dây không đứt: sự chuẩn bị của người già,tình xóm làng,và tinh thần không bỏ ai lại phía sau.
Nhưng để những mùa sau bớt lo hơn,vùng ngập cần thêm sợi dây dự phòng: một hệ thống thông tin chịu được thời tiết cực đoan. Trạm phát sóng tạm,bộ đàm cộng đồng,cảnh báo sớm,và đường dây hỗ trợ từ xã đến thôn cần được chuẩn bị,từ việc đơn giản nhất như cách ngoại tôi chuẩn bị cái thang và bao xốp. Nước sẽ còn lên,bão sẽ còn đến,nhưng không ai đáng phải chờ trong bóng tối.
Chừng nào những sợi dây đó được giữ chắc,quê tôi còn tiếng người trả lời.
Lê Phong